Tắc mạch ối – Biến chứng sản khoa nguy hiểm đe dọa tính mạng mẹ và bé

🌈 Tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa rất nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng được.
Tắc mạch ối là do nước ối, tế bào của thai nhi, chất gây, tóc, lông tơ hoặc các mảnh mô khác lọt vào tuần hoàn của người mẹ, gây ra suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính.
1. KHÁI NIỆM
– Yếu tố nguy cơ:
  • Sản phụ trên 35 tuổi, con rạ nguy cơ cao hơn con so.
  • Mổ lấy thai, đẻ có can thiệp thủ thuật Forcep, giác hút, chọc ối.
  • Đa ối, đa thai, rau tiền đạo, rau bong non, sản giật….
  • Tổn thương tử cung hoặc cổ tử cung.
– Thời điểm tắc mạch ối: rất khác nhau 12% số trường hợp xảy ra tắc mạch ối khi màng ối còn nguyên, 70% xảy ra trong chuyển dạ, 11% xảy ra sau đẻ qua đường âm đạo. 19% xảy ra trong mổ lấy thai khi đã có chuyển dạ hay khi chưa có chuyển dạ.
2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
   Xuất hiện đột ngột với các dấu hiệu theo trình tự thời gian. Khởi đầu là suy hô hấp, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút và tiếp đến là tụt huyết áp, phù phổi, choáng, biểu hiện thần kinh như: lú lẫn, mất ý thức và co giật. Trên 80% số trường hợp người bệnh có biểu hiện ngừng tim, ngừng thở trong vài phút đầu tiên. Có đến 50% số trường hợp tử vong ngay trong giờ đầu xuất hiện triệu chứng.
Nếu người bệnh thoát qua được giai đoạn này (khoảng 40% số trường hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Chảy máu từ tử cung không thể cầm được. Số trường hợp có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.
3. HẬU QUẢ VÀ BIẾN CHỨNG:
3.1. Tử vong mẹ, con.
3.2. Hậu quả về tinh thần và vận động cho mẹ và con do thiếu oxy não.
3.3. Hội chứng Sheehan: chảy máu nặng có thể dẫn tới hoại tử một phần hoặc toàn bộ thùy trước tuyến yên gây suy tuyến yên, biểu hiện bằng dấu hiệu vô kinh, rụng lông, rụng tóc, suy tuyến giáp, suy tuyến thượng thận, mất sữa.
3.4. Biến chứng khác: sự mất máu nhiều gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tinh thần của sản phụ, có thể gây suy gan, suy thận, suy đa tạng, rối loạn đông máu và dễ nhiễm khuẩn hậu sản. Bên cạnh đó việc truyền máu điều trị chảy máu sau đẻ làm tăng các nguy cơ và biến chứng của truyền máu
4. PHÒNG BỆNH
Không dự phòng được do người ta vẫn không hiểu tại sao nước ối vào tuần hoàn chỉ xảy ra ở một số ít người mà không xảy ra ở nhiều người khác cũng như không biết vai trò của mức độ, số lượng mảnh mô thai, loại mảnh mô thai (có chứa kèm theo phân su hay không) hay một số yếu tố nào đó của người mẹ nên tắc mạch ối chỉ ở một tỷ lệ rất nhỏ phụ nữ.

Bài viết cùng chủ đề:

Việc sử dụng Corticoid trong một số bệnh truyền nhiễm

Trong những năm gần đây, việc sử dụng sớm corticoid đã được chấp nhận rộng rãi trong một loạt các bệnh Truyền nhiễm. Trên cơ sở thông tin từ những nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng và các nghiên cứu hậu cứu, việc xem xét áp dụng vào từng tình huống cụ thể luôn...

Điện thoạiZaloChat