TÓM TẮT
Bối cảnh và mục tiêu: Viêm phổi là bệnh lý thường gặp và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 221 bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi bị viêm phổi điều trị tại Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 4/2015 đến 5/2016.
Kết quả:Các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi là: suy dinh dưỡng, sống ở nông thôn, thời gian khởi bệnh từ 3 ngày trở lên, hít khói thuốc lá và tuổi nhỏ, với OR hiệu chỉnh lần lượt là 5,143 (2,174-2,167); 3,870 (1,244-12,043); 3,214 (1,165-8,867); 2,714 (1,162-6,339); 0,952 (0,910-0,997). Các yếu tố giới, số anh chị em ruột, tiền sử sinh non hoặc nhẹ cân, thiếu sữa mẹ, tiền sử nhiễm khuẩn hô hấp cấp, sử dụng kháng sinh trước nhập viện, trình độ học vấn của mẹ, tiêm chủng không đầy đủ, tiền sử bệnh mạn tính, tiếp xúc người nhiễm khuẩn hô hấp cấp không liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi.
Kết luận: Các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi là: suy dinh dưỡng, sống ở nông thôn, thời gian khởi bệnh từ 3 ngày trở lên, hít khói thuốc lá và tuổi nhỏ.
* ThS. BS. Nguyễn Thị Thanh Phương, Bệnh viện Nhi Quảng Nam
**PGS. TS. BS. Bùi Bỉnh Bảo Sơn, Bộ môn Nhi, Trường Đại Học Y Dược Huế
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm phổi là bệnh lý thường gặp và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Ước tính năm 2010, có 120 triệu trường hợp viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi, trong đó 14 triệu trường hợp diễn tiến thành viêm phổi nặng [12]. Việc chẩn đoán và điều trị viêm phổi chủ yếu dựa vào dịch tễ, lâm sàng và X-quang phổi. Các chiến lược quản lý viêm phổi vẫn chưa tối ưu, một phần vì chúng ta chưa có đủ phương tiện để xác định bệnh nguyên, phân loại và tiên lượng cho bệnh nhân. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mới mắc và mức độ nặng của viêm phổi, đặc biệt ở các nước đang phát triển như: tuổi nhỏ, cân nặng lúc sinh thấp, suy dinh dưỡng, nhà đông con, trình độ học vấn của bố mẹ thấp, không khí trong nhà ô nhiễm, thiếu sữa mẹ, không được chủng ngừa vắc xin đầy đủ, có bệnh mạn tính kết hợp, số lần nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) trước đây hay tiền sử tiếp xúc với người NKHHCT trong nhà [4],[6],[10],[11],[14]… Việc xác định các yếu tố nguy cơ này góp phần tiên lượng và đưa ra biện pháp dự phòng thích hợp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 221 bệnh nhi bị viêm phổi vào điều trị tại Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 4/2015 đến 5/2016
Tiêu chuẩn chọn bệnh: trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi được chẩn đoán viêm phổi, viêm phổi nặng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới [13].
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện
Tất cả bệnh nhi nghiên cứu được hỏi tiền sử, bệnh sử, thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phân bố các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi
Bảng 1. Phân tích hồi quy logistic đơn biến các yếu tố liên quan mức độ nặng của viêm phổi,
Yếu tố nguy cơ | p | OR | 95% CI |
Tuổi | < 0,05 | 0,946 | 0,904 – 0,990 |
Giới (nam) | > 0,05 | 1,130 | 0,547 – 2,338 |
Địa dư (nông thôn) | < 0,01 | 4,400 | 1,493 – 12,971 |
Số anh chị em (≥2) | > 0,05 | 1,402 | 0,663 – 2,963 |
Học vấn mẹ (dưới cấp 3) | 0,001 | 3,393 | 1,603 – 7,182 |
Hít khói thuốc lá | < 0,01 | 3,286 | 1,504 – 7,178 |
Tiền sử nhẹ cân | > 0,05 | 1,535 | 0,528 – 4,459 |
Tiền sử sinh non | > 0,05 | 1,535 | 0,401 – 5,872 |
Thiếu sữa mẹ | > 0,05 | 0,848 | 0,414 – 1,739 |
Tiêm chủng không đầy đủ | < 0,05 | 2,106 | 1,007 – 4,403 |
Tiền sử bệnh mạn tính | < 0,01 | 3,375 | 1,359 – 8,379 |
Tiền sử NKHHCT(≥ 3 lần) | > 0,05 | 0,664 | 0,322 – 1,371 |
Tiếp xúc người NKHHCT | < 0,05 | 2,181 | 1,068 – 4,457 |
Thời gian khởi bệnh (≥ 3 ngày) | < 0,05 | 2,562 | 1,015 – 6,471 |
Sử dụng kháng sinh trước vào viện | > 0,05 | 0,734 | 0,358 – 1,503 |
Suy dinh dưỡng | 0,001 | 5,406 | 2,498 – 11,698 |
Nhận xét: Tuổi, địa dư (nông thôn), trình độ học vấn mẹ, hít khói thuốc lá, tiêm chủng không đầy đủ, tiền sử bệnh mạn tính, tiếp xúc người NKHHCT, thời gian khởi bệnh (≥ 3 ngày), suy dinh dưỡng là các yếu tố liên quan với sự hiện diện của viêm phổi nặng (p < 0,05).
Mối liên quan độc lập giữa các yếu tố nguy cơ với viêm phổi nặng
Bảng 2. Phân tích hồi quy logistic đa biến mối liên quan độc lập giữa các yếu tố nguy cơ với viêm phổi nặng
Yếu tố nguy cơ | p | OR | 95% CI |
Suy dinh dưỡng | 0,001 | 5,143 | 2,174 – 12,167 |
Hít khói thuốc lá | < 0,05 | 2,714 | 1,162 – 6,339 |
Địa dư (nông thôn) | < 0,05 | 3,870 | 1,244 – 12,043 |
Khởi bệnh ≥ 3 ngày | < 0,05 | 3,214 | 1,165 – 8,867 |
Tuổi | < 0,05 | 0,952 | 0,910 – 0,997 |
Nhận xét: Suy dinh dưỡng, sống ở nông thôn, hít khói thuốc lá, tuổi nhỏ và thời gian khởi bệnh từ 3 ngày trở lên là các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi với tỷ suất chênh OR tương ứng là 5,143; 3,870; 2,714; 0,952 và 3,214. Trong đó suy dinh dưỡng là yếu tố nguy cơ lớn nhất liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi sau khi phân tích hồi quy Logistic đa biến đưa ra những yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi gồm: suy dinh dưỡng, hít khói thuốc lá, sống ở nông thôn, khởi bệnh từ 3 ngày trở lên, tuổi.
Suy dinh dưỡng là một trong những yếu tố thuận lợi cho vi trùng gây bệnh nặng trong tất cả các trường hợp nói chung và viêm phổi nói riêng. Theo nghiên cứu của chúng tôi, nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ bị suy dinh dưỡng cao gấp 5,143 lần so với trẻ không suy dinh dưỡng. Nhiều nghiên cứu khác cũng ghi nhận kết quả tương tự: Nguyễn Thành Nhôm và CS (2015), Phan Xuân Mai (2001), Onyango và CS (2012) [1], [2], [9].
Nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ hít khói thuốc lá cao gấp 2,714 lần so với trẻ không hít khói thuốc lá. Nhiều nghiên cứu khác cũng đưa ra hít khói thuốc lá là một yếu tố nguy cơ của viêm phổi nặng: Azab và CS (2014), Jroundi và CS (2014), Hassan và CS (2011) [5], [7], [8].
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ sống ở nông thôn cao gấp 3,870 lần trẻ sống ở thành thị. Điều này có thể giải thích là do điều kiện kinh tế ở nông thôn thấp hơn thành thị, hệ thống y tế ở nông thôn chưa phát triển, đội ngũ cán bộ y tế thiếu về số lượng lẫn chất lượng nên trẻ thường được đưa đi khám khi bệnh đã nặng buộc phải nhập viện. Mặc khác, nhận thức và chất lượng đời sống cao nên người dân thành thị thường đưa trẻ đến các phòng mạch tư khám và chữa bệnh sớm ngay từ đầu. Ngày nay hệ thống phòng mạch tư nhân ở thành phố phát triển, bên cạnh đó nhiều loại thuốc kháng sinh có hiệu quả bằng đường uống ra đời nên các trường hợp viêm phổi nhẹ ở thành phố có thể được điều trị tại nhà mà không cần nhập viện. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phan Xuân Mai (2001) [1].
Nguy cơ viêm phổi nặng ở trẻ khởi bệnh từ 3 ngày trở lên cao gấp 3,214 lần so với trẻ khởi bệnh dưới 3 ngày. Một số nghiên cứu cũng cho kết quả tương tự: Onyango và CS (2012), Phan Xuân Mai (2001) [1], [9]. Diễn tiến viêm phổi ở trẻ em rất nhanh chóng. Sự chậm trễ đưa trẻ đi khám và điều trị làm tăng mức độ nặng của viêm phổi, thậm chí có thể tử vong.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi cũng là yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi. Cứ tăng 1 tháng tuổi nguy cơ viêm phổi nặng giảm xuống 0,952 lần. Điều này có thể giải thích do cấu tạo bộ máy hô hấp trẻ em có những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu, sinh lý. Các tổ chức tế bào của bộ phận hô hấp nói chung và phổi nói riêng chưa hoàn toàn biệt hóa và đang ở giai đoạn phát triển. Niêm mạc đường hô hấp dễ phù nề, xuất tiết và biến dạng trong quá trình bệnh lý. Phổi ở trẻ em nhất là trẻ nhỏ có nhiều mạch máu, bạch huyết nhưng ít tổ chức đàn hồi. Mặt khác, ở trẻ nhỏ, hệ thống miễn dịch chưa phát triển hoàn chỉnh, sức đề kháng kém. Do đó trẻ nhỏ rất dễ bị viêm phổi và nhanh chóng diễn tiến nặng, dễ dẫn đến tử vong [3].
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu các yếu tố liên quan đến mức độ nặng của viêm phổi trên 221 trường hợp gồm 184 trẻ bị viêm phổi và 37 trẻ viêm phổi nặng, chúng tôi đưa ra những kết luận sau:Trẻ suy dinh dưỡng có nguy cơ viêm phổi nặng gấp 5,143 lần trẻ cân nặng bình thường.Trẻ sống ở nông thôn có nguy cơ viêm phổi nặng gấp 3,870 lần trẻ sống ở thành thị.Trẻ khởi bệnh từ 3 ngày trở lên có nguy cơ viêm phổi nặng gấp 3,214 lần so với trẻ vào viện sớm trước 3 ngày.Trẻ có bị hít khói thuốc lá có nguy cơ viêm phổi nặng gấp 2,714 lần trẻ không hít khói thuốc lá.Tuổi càng nhỏ nguy cơ viêm phổi nặng càng cao. Khi trẻ lớn thêm 1 tháng tuổi, xác suất viêm phổi nặng giảm đi 0,952 lần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Xuân Mai (2001), “Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến viêm phổi nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi “, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Nguyễn Thành Nhôm, Phan Văn Năm, Võ Thị Thu Hương (2015), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các yếu tố liên quan đến viêm phổi nặng ở trẻ em từ 2 tháng đến 5 tuổi tại bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Long”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học Bệnh viện đa khoa Vĩnh Long.
3. Bùi Bỉnh Bảo Sơn (2012), “Viêm phổi do vi khuẩn mắc phải tại cộng đồng ở trẻ em“, Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 290–332.
4. Trần Quỵ (2006), “Đặc điểm giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp trẻ em“, Bài giảng Nhi khoa, tập 1, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 274–279.
5. Azab SF., Sherief LM., Saleh SH. et al (2014), “Impact of the socioeconomic status on the severity and outcome of community–acquired pneumonia among Egyptian children: a cohort study”, Infect Dis Poverty, 3, pp. 3–14.
6. Djelantik IG., Gessner BD., Sutanto A. et al (2003), “Case fatality proportionsand predictive factors for mortality among children hospitalized with severe pneumonia in a rural developing country setting”, J Trop Pediatr, 49(6), pp. 327–332.
7. Hassan MK., Al–Sadoon I. (2001), “Risk factors for severe pneumonia in children in Basrah”, Trop Doctor, 31(3), pp. 139–141.
8. Jroundi I., Mahraoui C., Benmessaoud R. et al (2014), “Risk factors for a poor outcome among children admitted with clinically severe pneumonia to a university hospital in Rabat, Morocco”, Int J Infect Dis, 28, pp. 164–170.
9. Onyango D., Kikuvi G., Amukoye E. et al (2012), “Risk factors of severe pneumonia among children aged 2–59 months in Western Kenya”, Pan African Medical Journal, 13(45), pp. 1733.
10. Rudan I., Boschi–Pinto C., Biloglav Z. et al (2008), “Epidermiology and etiology of childhood pneumonia”, Bulletin of the World Health Organization, 86(5), pp. 408–416.
11. Tiewsoh K., Lodha R., Pandey RM. et al (2009), “Factors determining the outcome of children hospitalized with severe pneumonia”, BMC Pediatrics, 9(15), pp. 1471–2431.
12. Walker CL., Rudan I., Liu L. et al (2013), “Global burden of childhood pneumonia and diarrhoea”, The Lancet, 381(9875), pp. 1405–1416.
13. WHO (2013), “Pocket book of hospital care for children“, Guidelines for the management of common childhood illness, second edition, pp. 80–87.
14. Wonodi CB., Deloria–Knoll M., Feikin DR. et al (2012), “Evaluation of Risk Factors for Severe Pneumonia in Children: The Pneumonia Etiology Research for Child Health Study”, Clinical Infectious Diseases, 54(2), pp. 124–131.
Nguyễn Thị Thanh Phương* Bùi Bỉnh Bảo Sơn*
28 Tháng 9 2017